1. Dân tộc La Ha
Dân tộc La Ha cư trú tại các xã Liệp Tè, Noong Lay và Chiềng La. Đồng bào còn có tên gọi khác là Xá, Puộc, Xá Khao, Pụa, Khlá-phlạo. Tiếng La Ha thuộc nhóm ngôn ngữ Kađai.
Dân tộc La Ha sống chủ yếu bằng nghề làm rẫy theo lối du canh. Việc hái lượm rất quan trọng, thường xuyên hơn so với săn bắn và đánh cá. Ngày nay, nhiều bản đã làm ruộng, biết đắp bờ chống xói mòn nương, có nơi đã biết dùng phân bón. Chăn nuôi có lợn, gà, nay thêm trâu, bò dùng để cày kéo.
Người La Ha không dệt vải, chỉ trồng bông và đem bông trao đổi với người Thái lấy vải mặc, nên mặc giống người Thái Đen.
Bản của người La Ha thường có khoảng chục nóc nhà. Đồng bào ở nhàsàn có hai cửa ra vào với thanh lên xuống tại hai đầu nhà, một cửa vào chỗ để tiếp khách và một cửa vào chỗ dành cho sinh hoạt nội bộ gia đình.
Trai gái La Ha được tự do tìm hiểu nhau, không bị cha mẹ ép buộc cưới gả. Tuy nhiên, việc cưới gả phải được cha mẹ ưng thuận. Để tỏ tình chàng trai phải đến nhà cô gái và dùng sáo, nhị, lời hát trước khi trò chuyện bình thường. Sau lễ dạm hỏi, nếu nhà gái không trả lại trầu do bà mối của nhà trai đưa đến thì tổ chức lễ xin ở rể và chàng trai phải ở rể từ 4 đến 8 năm. Hết hạn đó, lễ cưới mới tiến hành, cô dâu được về ở nhà chồng. Vợ phải đổi họ theo chồng.
Theo phong tục làm ma của người La Ha, người chết được chôn theo cả tiền và thóc. Người La Ha tin có nhiều loại ma, như: Ma rừng, ma nước, ma nương, ma nhà…Mỗi người có 8 hồn, sau khi chết bình thường hồn hoá ra ma nhà hoặc ma nương. Trong mỗi gia đình đều có bàn thờ ma nhà, nhưng chỉ thờ một ông bố mà thôi. Hàng năm vào mùa hoa ban nở, nhà nhà đều làm lễ tạ ơn cha mẹ.
2. Dân tộc Khơ Mú
Dân tộc Khơ Mú thuộc nhóm dân tộc thiểu số ở Thuận Châu, đồng bào cư trú chủ yếu ở các xã Noong Lay, Chiềng Pha, Mường É và Co Mạ.
Dân tộc Khơ-mú còn có các tên gọi khác như: Xá Côu, Mứn Xen, Pu Thênh, Tềng, Tày Hạy. Tiếng Khơ - Mú thuộc nhóm ngôn ngữ Mon – Khmer.
Người Khơ - Mú sống chủ yếu bằng kinh tế nương rẫy. Cây trồng chính là lúa, ngô, khoai, sắn. Trong canh tác, đồng bào dùng dao, rìu, gậy chọc hốc là chính. Hái lượm, săn bắn giữ vị trí quan trọng, nhất là lúc giáp hạt. Đồng bào nuôi gia súc, gia cầm chỉ để phục vụ dịp lễ lạt, tiếp khách. Nghề đan lát phát triển. Đồng bào đan các đồ dùng để vận chuyển, chứa lương thực… Người Khơ - Mú không phát triển nghề dệt vải, nên thường mua quần áo, váy của người Thái để mặc.
Đến nay ở nhiều vùng người Khơ - Mú vẫn còn du canh du cư. Làng bản của họ thường cách xa nhau, nhỏ bé, ít dân. Nhà cửa phần lớn làm sơ sài, đồ dùng trong nhà cũng ít ỏi. Sắc thái Khơ-Mú thể hiện ở trang phục hầu như đã bị phai mờ tay trang sức của phụ nữ còn có đôi điểm riêng biệt.
Các họ của người Khơ-Mú thường mang tên một loài thú, một loài chim hay một thứ cây nào đó, Mỗi dòng họ coi thú, chim, cây cối là tổ tiên ban đầu của mình và họ kiêng giết thịt và ăn thịt các loại động, thực vật này. Mỗi dòng họ có huyền thoại kể về lai lịch của tổ tiên chung, người cùng dòng họ coi nhau là anh em ruột thịt.
Ở gia đình người Khơ-Mú, vợ chồng bình đẳng, chung thuỷ. Người Khơ-Mú có tục cưới ở rể một năm, sau đó mới đưa vợ về nhà mình. Khi ở nhà vợ, người chồng đổi họ theo vợ, còn nếu có con thì con theo họ mẹ, trái lại khi về nhà chồng thì vợ lai phải đổi họ theo chồng và các con lại mang họ bố. Người cùng dòng họ không được lấy nhau, nhưng con trai cô được lấy con gái cậu. Trong việc dựng vợ gả chồng và trong cuộc sống gia đình, vai trò của người cậu đối với các cháu rất quan trọng.
Người Khơ - Mú tin vào các loại “ma”, đặc biệt là “ma trời”, “ông sét”, “ma đất”, “ma rừng”, “ma nương”, “ma bản”, “ma nhà”, “ma tổ tiên”…Trong một năm, đồng bào có những nghi lễ tôn giáo chính như: Cúng ma mường, ma bản, thờ cúng tổ tiên và các nghi lễ liên quan đến lao động sản xuất.
Dân tộc Khơ-mú có truyền thống văn hoá lâu đời, phong phú, tuy cuộc sống vật chất còn nghèo, nhưng cuộc sống tinh thần khá dồi dào.
Người Khơ Mú xưa rất nghèo, chủ yếu làm nghề nông trồng lúa cạn với những trảng nương (hrệ) ở vùng đồi núi chẳng mấy mầu mỡ nhưng có một đời sống văn hóa hết sức độc đáo. Xin giới thiệu lễ hội Mah grợ và điệu múa Vêlr guông của họ - Đây là sản phẩm văn hóa tinh thần, tâm linh có nguồn gốc, cổ truyền từ xa xưa, ít thấy một dân tộc nào còn lưu giữ được bền lâu đến như vậy.
Người Khơ Mú bắt tay làm nương, phát cây, dẫy cỏ tháng giêng, tháng hai đến tháng ba, tháng tư âm lịch là đốt nương gieo trồng hạt xuống đất. Họ làm lễ PALR HMAL PHLƯA - Lễ xin lửa với hồn bếp.
Tháng ba, tháng tư thời tiết thất thường, có năm hạn làm cây lúa khó mọc, các cụ già trong bản thường xui trẻ em và bọn con trai, con gái làm trò cầu mưa. Trẻ em múa sạp, múa mắc chân ba người để trời làm sét cho mưa. Bọn trai gái mặc áo mưa, đội nón giữa trời không mưa, đi đến từng nhà làm náo động cả bản, đến nhà nào, nhà ấy lấy chậu nước vo gạo hay nước trong ống dội vào đám trẻ "mưa đấy, mưa rồi đấy"! Có lẽ bài hát "mưa rơi" ra đời từ sinh hoạt này?.
Bước sang tháng tám, tháng chín âm lịch, cây lúa đã trổ bông. Bà con chủ nương trong vai "Mẹ lúa" (Ma ngọ) lên nương cắt những bông xanh làm cốm, bông vàng đem về luộc chín, khơi khô mới giã, làm gạo luộc thóc non, cốm và gạo non (thóc luộc) giành để làm lễ MAH QUAI: (Mah làm ăn, Quai là khoai) ý nghĩa là dâng cơm, lúa non cho tổ tiên, ma nhà, nhà nào năm nào cũng phải làm lễ Mah Quai, nhưng trong bản không tổ chức ăn cùng ngày, các gia đình còn tránh ngày kiêng lửa.
Tiếp đó, trong bản những gia đình kinh tế khấm khá sẽ thay nhau làm lễ hội Mah grợ và chỉ có làm lễ mah grợ với múa Velr guông. Lễ hội có ý nghĩa tổng kết vụ mùa năm qua và khai mở một vụ mùa năm tới.
Mah grợ là một lễ hội vui của bản. Tên gọi tuy mộc mạc, cổ xưa, ít dân tộc nào còn giữ được, nhưng đúng với bản chất của tộc người sống bằng nghề nương rẫy lâu đời.
Trong nghi thức phần lễ sẽ có mâm cúng tổ tiên là ba con gà. Lúc cắt tiết, cắt mỏ con thứ nhất, tiết ở mỏ gà bôi vào đầu gối của những người trong nhà, nói khấn: "Do bò trèo đèo núi làm nương, đầu gối yếu mềm, nay sửa lại cho mạnh, cho cứng". Cắt tiết con thứ hai, quệt tiết gà vào bồ thóc, rổ khoai, nói khấn: "Thóc năm nay tốt sang năm khoai thóc tốt hơn". Cắt tiết con gà thứ ba đem xuống dưới gầm sàn bôi vào đầu con trâu, con trâu được phủ miếng vải khuýt, vải trắng trên lưng và hai sừng buộc hoa rừng vào cặp sừng. Ông chủ nói khấn: "Trâu ơi, trâu phải khỏe, đẻ nhiều con, tinh phải cứng, hổ phải sợ, sang năm trâu giúp ta làm nên cửa nhà, giàu có...".
Mẹ lúa khoe bông lúa lúa đẹp với các cụ bà và cài lên đầu các cụ bà vài bông hoa rừng. Mẹ lúa nói: "Đã có cơm gạo, các cụ vui khỏe, đẹp như hoa rừng, năm tới các cụ lại đến vui...".
Bữa cơm nội gia của chủ nhà ăn xong, mẹ lúa và những người trong gia đình đem rổ khoai, bí đỏ đã đồ chín nhừ ra giữa nhà để bắt đầu cuộc bôi khoai, bí chín vào áo mọi người. Ai bốc được thứ gì ăn một miếng còn lại bôi vào áo ông bà chủ nhà rồi khách, ai được bôi nhiều người đó sẽ gặp nhiều may mắn. Sau cuộc bôi bí là cuộc uống rượu cần chum to, lần lượt các cụ ông, đến lượt các cụ bà rồi đến khách quý, uống rượu cần hết lượt mới bước vào cuộc vui nhảy múa.
Trống, chiêng, brinh họa (trống đuổi khỉ) nổi lên. Điệu múa Vêlr Guông bắt đầu, bộ trống chiêng brinh họa đứng tại chỗ, gõ dục tốp múa, rộn ràng. Tốp múa nam nữ đang ở đâu đó lẫn trong đám đông bước ra. Nam đeo chiếc "khoong khăn" vừa là nhạc khí, vừa là đạo cụ múa. Điệu múa nhún mềm mại, duyên dáng rộn ràng, thoảng hoặc diễn viên múa "lượn lưng eo" làm rung lòng người. Các diễn viên càng say xưa, người xem đứng lô nhô, vòng ngoài đắm chìm trong tiết tấu, nhịp điệu múa. Người múa tự khoe mình là chính, mất đi đội hình gò bó, vuông tròn... hòa vào khối quần chúng tạo nên cảnh người múa và người xem là một khi diễn. Đây chính là nét độc đáo của lễ hội Mah grợ và điệu múa Velr Guông của người Khơ Mú.
3. Dân tộc Kháng
Dân tộc Kháng, Thuận Châu cư trú tại các xã Chiềng Bôm, Chiềng Pha và Long Hẹ. Dân tộc Kháng còn có tên gọi khác là: Xá Khao, Xá Xúa, Xá Đôn, Xá Dâng, Xá Hộc, Xá Ái, Xá Bung, Quảng Lâm, Tiếng Kháng thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khmer.
Người Kháng làm rẫy theo lối chọc lỗ tra hạt, trồng nhiều lúa nếp làm lương thực chính, nay nhiều nơi chuyển sang cày bừa đất, gieo hạt, có ruộng bậc thang nhưng không nhiều. Đồng bào chăn nuôi gà, lợn, trâu là phổ biến. Đồ đan: Ghế, rổ, rá, nia, hòm, gùi… và thuyền độc mộc kiểu đuôi én của đồng bào được người Thái ưa dùng. Người Kháng thường dùng loại gùi một quai, đeo qua trán.
Đồng bào trồng bông rồi đem bông đổi lấy vải và đồ mặc của người Thái nên trang phục giống người Thái. Phụ nữ nhuộm răng đen, ăn trầu.
Người Kháng ở nhà sàn. Nhà thường có 3 gian 2 chái, mái kiểu mu rùa và hai cửa ra vào ở hai đầu nhà, 2 cửa sổ ở hai vách bên. Mỗi nhà có hai bếp lửa (một bếp để nấu ăn hàng ngày, còn một bếp để sưởi và để nấu đồ cúng khi bố mẹ chết).
Tục cưới xin của người Kháng lần lượt trải qua các lễ thức sau: dạm hỏi, xin ở rể, cưới. Lễ cưới lần đầu được tổ chức cho chàng trai đi ở rể. Lễ cưới lần hai, đưa dâu về nhà chồng để gây dựng gia đình riêng. Người cậu có vai trò đặc biệt trong việc dựng vợ gả chồng cho cháu.
Theo phong tục người Kháng, người chết được chôn cất chu đáo, trên mộ có nhà mồ, có các đồ vật dành cho người chết: Hòm đựng quần áo, giỏ cơm, ống hút rượu, bát, đũa…phía đầu mộ chôn một cột cao 4-5 mét, trên đỉnh có con chim gỗ và treo chiếc áo của vợ hay chồng người chết.
Người Kháng quan niệm mỗi người có 5 “hồn”. Sau khi chết, một hồn ở tại nhà, một hồn ở rẫy, một hồn ở gốc cây bị chặt để làm quan tài, một hồn ở nhà mồ, còn một hồn lên trời. Bố mẹ chết được thờ trên tấm phên ở góc nhà, đó là ma nhà. Hàng năm dân bản cúng ma trời và ma đất một lần.
4. Dân tộc Mông
Dân tộc Mông sinh sống tập trung các xã khu vực III của huyện gồm xã Co Tòng, Pá Lông, Co Mạ, Long Hẹ và Phổng Lái. Tiếng Mông thuộc nhóm ngôn ngữ Mông – Dao và có chữ viết riêng. Nguồn sống chính là làm nương định canh hoặc nương du canh trồng ngô, lúa, lúa mạch. Có truyền thống trồng xen canh trên nương cùng với cây trồng chính là các cây ý dĩ, khoai, rau, lạc, vừng, đậu... Chiếc cày của người Mông rất nổi tiếng về độ bền cũng như tính hiệu quả. Trồng lanh, các cây ăn quả như táo, lê, đào, mận, dệt vải lanh là những hoạt động sản xuất đặc sắc của người Mông. Người Mông chăn nuôi chủ yếu trâu, bò, lợn, gà, ngựa. Ngựa thồ là phương tiện vận chuyển rất có hiệu quả trên vùng cao núi đá. Con ngựa rất gần gũi và thân thiết với từng gia đình Mông. Họ phát triển đa dạng các nghề thủ công như đan lát, rèn, làm yên cương ngựa, đồ gỗ, nhất là các đồ đựng, làm giấy bản, đồ trang sức bằng bạc phục vụ nhu cầu và thị hiếu của người dân. Các thợ thủ công Mông phần lớn là thợ bán chuyên nghiệp làm ra những sản phẩm nổi tiếng như lưỡi cày, nòng súng, các đồ đựng bằng gỗ ghép.
Ăn: Người Mông thường ăn ngày hai bữa, ngày mùa ăn ba bữa. Bữa ăn với các thực phẩm truyền thống có mèn mén (bột ngô đồ) hay cơm, rau xào mỡ và canh. Bột ngô được xúc ăn bằng thìa gỗ. Phụ nữ khéo léo làm các loại bánh bằng bột ngô, gạo vào những ngày tết, ngày lễ. Người Mông quen uống rượu ngô, rượu gạo, hút thuốc bằng điếu cày. Ðưa mời khách chiếc điếu do tự tay mình nạp thuốc là biểu hiện tình cảm quý trọng.
Mặc: Trang phục của người Mông rất sặc sỡ, đa dạng. Phụ nữ Mông Trắng mặc váy màu trắng, áo xẻ ngực, thêu hoa văn ở cánh tay, đầu đội khăn piêu.
Ở: Người Mông quần tụ trong từng bản vài chục nóc nhà. Nhà trệt, ba gian hai chái, có từ hai đến ba cửa. Gian giữa đặt bàn thờ. Người Mông rất coi trọng dòng họ bao gồm những người có chung tổ tiên. Các đặc trưng riêng với mỗi họ thể hiện ở những nghi lễ cúng tổ tiên, ma cửa, ma mụ... như số lượng và cách bày bát cúng, bài cúng, nơi cúng, ở các nghi lễ ma chay như cách quàn người chết trong nhà, cách để xác ngoài trời trước khi chôn, cách bố trí mộ... Người cùng họ dù không biết nhau, dù cách xa bao đời nhưng qua cách trao đổi các đặc trưng trên có thể nhận ra họ của mình. Phong tục cấm ngặt những người cùng họ lấy nhau. Tình cảm gắn bó giữa những người trong họ sâu sắc. Trưởng họ là người có uy tín, được dòng họ tôn trọng, tin nghe.
Hôn nhân: Cô dâu đã qua lễ nhập môn, bước qua cửa nhà trai, coi như đã thuộc vào dòng họ của chồng. Vợ chồng rất gắn bó, luôn ở bên nhau khi đi chợ, đi nương, thăm hỏi họ hàng.
Thờ cúng: Trong nhà có nhiều nơi linh thiêng dành riêng cho việc thờ cúng như nơi thờ tổ tiên, ma nhà, ma cửa, ma bếp. Những người biết nghề thuốc, biết làm thầy còn lập bàn thờ cúng những vị tổ sư nghề của mình. Nhiều lễ cúng kiêng cấm người lạ vào nhà, vào bản. Sau khi cúng ma cầu xin ai thường đeo bùa để lấy khước.
Lễ tết: Người Mông ăn tết năm mới truyền thống từ đầu tháng 12 âm lịch, sớm hơn tết Nguyên đán một tháng. Ngày Tết không thể thiếu bánh dày, một loại bánh người Mông cho là món quà thiên nhiên ban tặng, tượng trưng cho trái đất tròn, môi trường sinh thái trong lành. Trong tết thanh niên chơi Pa Pao, thổi khèn, ca hát ở những bãi rộng của bản.
5. Dân tộc Kinh
Dân tộc Kinh sinh sống tập trung ở thị trấn của huyện, chuyển đến từ tỉnh Hải Dương, Hưng Yên, Thái Bình, Thanh Hóa... Đồng bào Kinh ở Thuận Châu sống xen kẽ với đồng bào các dân tộc, đã nhanh chóng hoà nhập trong lao động sản xuất, giao lưu văn hoá, đoàn kết tạo ra sự gắn kết, hoà nhập cùng phát triển trên mảnh đất Thuận Châu. Tiếng Kinh thuộc ngôn ngữ Việt - Mường, có chữ viết riêng. Dân tộc Kinh làm vườn, trồng dâu nuôi tằm, chăn nuôi gia súc và gia cầm và kinh doanh, buôn bán. Người Kinh có tập quán ăn trầu cau, uống nước chè, nước vối. Ngoài cơm tẻ, cơm nếp, còn có cháo, xôi. Mắm tôm, trứng vịt lộn là món ăn độc đáo của người Kinh. Trong gia đình người Kinh, người chồng (người bố) là chủ. Con cái lấy họ theo bố và họ hàng phía bố là (họ nội), còn đằng mẹ là (họ ngoại). Con trai đầu có trách nhiệm tổ chức thờ phụng bố mẹ, ông bà đã khuất. Mỗi họ có nhà thờ họ, có người trưởng họ quán xuyến việc chung. Hôn nhân theo chế độ một vợ một chồng. Việc cưới xin phải trải qua nhiều nghi thức, nhà trai hỏi vợ và cưới vợ cho con. Sau hôn lễ, cô dâu về ở nhà chồng. Người Kinh coi trọng trinh tiết, đức hạnh của các cô dâu, đồng thời chú ý đến gia thế xuất thân của họ. Người Kinh thờ cúng tổ tiên. Những người quá cố được con cháu cúng giỗ hàng năm vào ngày họ chết. Mồ mả của họ thường xuyên được người thân thăm viếng, chăm sóc. Hàng năm người nông dân có hàng loạt lễ hội, lễ tết gắn liền với các tín ngưỡng nông nghịêp. Ngoài ra, đạo Phật, đạo Nho, đạo Lão, đạo Thiên chúa từ ngoài du nhập vào được tiếp nhận ở các mức độ khác nhau. Vốn văn học cổ của người Kinh khá lớn: Có văn học truyền miệng (truyện cổ, ca dao, tục ngữ), có văn học viết bằng chữ (những áng thơ, văn, bộ sách, bài hịch). Nghệ thuật phát triển sớm và đạt trình độ cao về nhiều mặt: ca hát, âm nhạc, điêu khắc, hội hoạ, múa, diễn xướng
6. Dân tộc Thái
Dân tộc Thái là dân tộc có nguồn gốc lâu đời ở huyện Thuận Châu, hiện nay sống tập trung ở các xã khu vực I, II của huyện, chủ yếu là Thái Đen. Thực hiện di dân tái định cư Thủy điện Sơn La có một số bản Tái định cư Thái Trắng từ huyện Quỳnh Nhai chuyển về. Người Thái Đen vẫn còn lưu giữ nhiều nét văn hóa truyền thống đặc sắc. Tiếng Thái thuộc nhóm ngôn ngữ Thái - Tày, có chữ viết riêng. Người Thái sống quây quần theo từng bản, mỗi bản có khoảng 30-80 nóc nhà kề nhau. Họ sống chủ yếu bằng trồng lúa nước, lúa nương và chăn nuôi lợn, gà, trâu, bò...hoặc đi làm thêm, đi kiếm củi. Ở đây hầu như mọi nhà đều tự nấu rượu ngô, rượu sắn để phục vụ gia đình và bán kiếm thêm thu nhập.
Phụ nữ Thái Đen có bộ trang phục rất duyên dáng, áo cóm bó sát người, váy đen dài chấm gót, đầu đội khăn piêu. Người con gái Thái khi về nhà chồng phải chuẩn bị đủ khăn piêu và chăn bông để biếu gia đình và họ hàng nhà chồng. Phụ nữ có chồng phải vấn tóc cao trên đỉnh đầu gọi là tẳng cẩu. Điều này vừa để phân biệt được người con gái đã có chồng hay chưa, vừa thể hiện sự thủy chung của người phụ nữ đó với chồng.
Người Thái Đen thường làm nhà sàn gỗ 5 hoặc 3 gian tùy theo điều kiện của từng gia đình. Các gian giữa được dùng làm phòng ngủ, cách nhau bởi các tấm rido căng dây lên các cột nhà. Nhà sàn của người Thái (hướn hạn phủ táy) là một công trình kiến trúc tài hoa, hoà đồng với thiên nhiên, đất trời cùng vạn vật. Từ kiến trúc xây dựng đến nghệ thuật trang trí đều bắt nguồn từ thực tế cuộc sống khách quan được cách điệu hoá đạt tới trình độ thẩm mỹ cao. Người Thái có câu: “Khửn song phái, cái song đay" tức là mở hai cửa đi hai thang. Nhà người Thái bao giờ cũng có hai cầu thang (Tang chan) và (Tang quản). (Tang chan) ở cuối nhà, bên trái dành cho phụ nữ lên xuống. (Chan) là phần sàn nhà được nối dài ra ngoài trời. Đây là nơi các mẹ, các chị, các em... thường ngồi chơi lúc nhàn rỗi, thêu thùa, cầu thang này bao giờ cũng mang số lẻ, thường là 9 bậc, ứng với 9 vía. Cầu thang dành riêng cho nam giới (tang quản) ở đầu nhà, thường có 7 bậc ứng với 7 vía. Nhà sàn của người Thái thường có hai bếp lửa (Chi phay). Bếp lửa phía (tang quản) dành cho người già, bếp chính ở phía (tang chan) dành cho nữ giới và những công việc nội trợ. Từ bếp dành cho người già đến hết cầu thang dành cho nam giới gọi là (quản). Đây là nơi dành riêng cho đàn ông, phụ nữ không được đến khu vực này, trừ một số trường hợp đặc biệt. Nơi đây có gian thờ tổ tiên (hỏng hóng) và cột thiêng (sau hẹ). Trên cột thiêng treo hình thần rùa (mai con rùa thật hoặc bằng gỗ), ba bông lúa (sam huống khẩu) và ba nhánh rau thì là (sam hóm chi). Nhà sàn được trang trí nhiều hoa văn hoạ tiết tinh xảo (Khau cút) là hai tấm ván đóng chéo nhau hình chữ X trên nóc đó là cặp sừng trâu cách điệu, biểu tượng của một nền văn minh lúa nước.
Pat -tông là một trong những nghi lễ thờ cúng để tưởng nhớ đến ông bà, tổ tiên. Theo lịch của người Thái cứ 10 ngày họ lại làm cơm cúng một lần bữa trưa và bữa tối tại gian thờ tổ tiên (nả hóng) theo ngày cố định tùy theo dòng họ, cúng theo một trong mười ngày sau: Ngày Canh (mự khốt), ngày Tân (mự huộng), ngày Nhâm (mự táu), ngày Quý (mự cá), ngày Giáp (mự cáp), ngày Ất (mự hặp), ngày Bính (mự hái), ngày Đinh (mự mấng), ngày Mậu (mự pấc), ngày Kỷ (mự cắt). Bà con thường đồ xôi, nướng cá, nướng thịt hoặc mổ gà để đặt lên bàn thờ. Phận dâu hoặc con gái đã đi lấy chồng thì không được làm cơm cúng, kiêng đi lại gần chỗ thờ cúng. Đối với những gia đình duy tâm hoặc có người hay ốm đau thì họ thường làm thêm một ban thờ nhỏ ngoài nhà để thờ cúng ma đói ma khát, ma lang thang. Vào những ngày mùng một, ngày rằm, hay khi trong nhà có người ốm đau họ thường thắp hương, bày hoa quả, bánh kẹo để cúng các ma với hi vọng những hồn ma sẽ không quấy rầy gia đình, phù hộ cho gia đình được mạnh khỏe, làm ăn thuận lợi.
Hôn nhân người Thái trước kia theo chế độ ở rể nên việc lấy vợ và lấy chồng phải qua nhiều bước, trong đó có hai bước cơ bản:
+ Cưới lên (đong khửn): Đưa rể đến cư trú nhà vợ, là bước thử thách phẩm giá, lao động của chàng rể.
+ Cưới xuống (đong lông): Đưa gia đình trở về với họ bố.
Tuy nhiên với thời đại hiện nay nhất là phong tục ở rể cũng đã được giảm đi rất nhiều so với trước đây.
Ma chay: Lễ tang có 2 bước cơ bản:
Pông: Phúng viếng tiễn đưa hồn người chết lên cõi hư vô, đưa thi thể ra rừng chôn (Thái Trắng), hỏa táng hay còn gọi là thiêu (Thái Ðen).
Xống:Người dẫn đường thường là lấy rể cả (khươi cốc) đọc và đưa hồn người chết qua các chăng đường, lên trên thiên đàng rồi gọi ma trở về ngụ ở gian thờ cúng tổ tiên ở trong nhà.
Tín ngưỡng truyền thống là thờ cúng tổ tiên, cúng trời đất, cúng bản mường, có nhiều lễ nghi gắn liền với sản xuất nông nghiệp, lễ đón tiếng sấm được coi là lễ mở đầu một năm mới. Kho tàng văn hoá, văn nghệ dân gian phong phú, ngày tết có rất nhiều hoạt động đặc sắc. Trong những ngày này họ thường đi đến nhà nhau ngồi tụ uống rượu, hát đối đáp, múa xòe đến thâu đêm suốt sáng. Những chàng trai, cô gái thì chọn cho mình bộ trang phục đẹp nhất để đi chơi ném còn, chơi đu quay, múa sạp, tó má lẹ.... Nhiều thần thoại, cổ tích, truyền thuyết, truyện thơ, ca dao... nhiều tác phẩm nổi tiếng như (Xống chụ xon xao), (Quám Tố Mường); thích ca hát, đặc biệt hát (khắp) là lối hát ngâm thơ rất phổ biến, có đệm đàn và múa; múa có múa xoè là đặc trưng tiêu biểu.